Bò vàng Việt Nam

Bò vàng Việt Nam phân bố rộng ở nhiều vùng trong cả nước và thường được gọi theo tên địa phương như bò Thanh Hóa, bò Nghệ An, bò Lạng sơn, bò Phú Yên….Mặc dù có sự khác nhau nhất định về một vài đặc điểm màu lông và thể vóc nhưng chưa có cơ sở nào để khẳng định đó là những giống bò khác nhau, cho nên có thể gọi chung các giống bò nội của ta là bò vàng Việt Nam.

Bò nội thường lông màu vàng,vàng nhạt hay vàng cánh dán và không có thiên hướng sản xuất rõ rệt.

Ngoại hình bò vàng cân xứng. Đầu con cái thanh, sừng ngắn, con đực đầu to, sừng dài và chĩa về phía trước, mạch máu và gân mặt nổi rõ. Mắt tinh lanh lợi. Cổ con cái thanh, con đực to,  yếm kéo dài từ hầu đến xương ức. Da có nhiều nếp nhăn. U vai con đực cao, con cái không có. Lưng và hông thẳng, hơi rộng. Bắp thịt nở nang. Mông hơi xuôi, hẹp và ngắn. Ngực phát triển tốt, sâu nhưng hơi lép. Bụng to tròn nhưng không sệ. Bốn chân thanh, cứng cáp, hai chân trước thẳng, hai chân sau đi thường chạm khoeo.

Bò nội có nhược điểm là tầm vóc nhỏ. Khối lượng sơ sinh 14 -15 kg, lúc trưởng thành con cái nặng 160 – 200 kg, con đực nặng 250 – 280 kg. Tuổi phối giống lần đầu khoảng 20 – 24 tháng. Tỷ lệ đẻ hàng năm khoảng 50 – 80%. Khả năng cho sữa thấp, khoảng 2 kg/ngày trong thời gian 4- 5 tháng (chỉ đủ cho con bú).

Năng suất thịt không cao, tỷ lệ thịt xẻ 40 – 44 %.

Bò vàng có khả năng làm việc dẻo dai ở những chân đất nhẹ, có tốc độ đi khá nhanh.

Bò vàng có ưu điểm là chịu đựng kham khổ tốt, có khả năng chống bệnh tật cao, thích nghi với nhiều vùng khí hậu trong nước